Chiến Phan

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

Nhật ký của cha - Merci - Sống chậm...câu cá trên trời [Dad's diary -Slow Living... Fishing in the Sky]

 

"Khi con biết nghe tiếng thở của mình..."

(Một ngày trước 30/4, giữa lòng Sài Gòn)

Một thành phố đã đi qua chiến tranh.

Một thành phố đang đi tới tương lai.

Đường phố quận 1 sáng rực như một sân khấu khổng lồ. Chia tay ở một Battery, quán cafe và bánh ngọt được làm thủ công, theo lời giới thiệu của người chị xem qua facebook, ông già và thằng nhóc tiếp tục hành trình của mình. 

Trời tháng Tư ở Sài Gòn không khác gì lắm so với mọi ngày – hơi nóng dồn về cuối ngày, đông đúc, và rực rỡ một cách lạ lùng. Nhưng hôm nay, thành phố có vẻ nhiều sắc màu hơn. Dọc đường Hai Bà Trưng, những tấm pano chào mừng ngày 30/4 giăng dày. Người người đổ về phố đi bộ Nguyễn Huệ, chen chúc nhau để có được chỗ xem các khẩu pháo đại bác, chuẩn bị bắn lên nền trời sau những chiếc trực thăng và tiêm kích trình diễn.

– Ba, mai mình coi diễu binh

không? – Merci ngồi sau lưng, hỏi lớn.

– Ừ, nếu con muốn. Nhưng không ở gần nhé, đông lắm.

Ông già bật cười nhẹ, liếc gương chiếu hậu thấy thằng nhóc ôm khư khư quyển sách vừa mua – “Câu cá trên trời”. Một cái tên lãng đãng, nghe như thơ. Ấy vậy mà thằng nhóc nhất định đòi mua cho bằng được; đâu đó có lời giới thiệu của em, về việc chinh phục những điều bất khả thi, của gã tác giả đã kể lại hành trình lập nghiệp của mình, phải rong ruổi miết mới tìm được ở nhà sách Nguyễn Huệ, quyển sách được giảm giá.

Không khí thành phố vừa sôi động vừa trang nghiêm, lạ lẫm.

Mùi cỏ non mới cắt từ những thảm xanh trước trụ sở UBND Thành phố hòa lẫn mùi sơn còn chưa khô của những bảng hiệu dựng vội.

Thằng nhóc quay sang thì thầm

– Giờ con dùng điện thoại rồi, còn thấy mình lớn hơn, chẳng còn là đứa trẻ mãi nữa?

Ông già im lặng, như thể để chú nhóc của mình hồi tưởng lại những ký ức của một thời ấu thơ. Ký ức là quá khứ. Thằng nhóc của ông già chắc hẳn nhớ nhung của một vòng tay ngồi phía sau, chẳng nối được trọn một vòng tày. Thằng nhóc của những ngày lẽo đẽo theo sau, đi theo ông già và em khắp chốn của thị thành sau những ngày học, những ngày hè từ những quán bụi đường cho đến nơi văn phòng làm việc.

Thời gian trôi nhanh quá. Lớn từ từ để kịp yêu thương. Ông già nhớ như in những lời mình hay nói với đám trẻ.

– Ừ, giống kiểu... sống mà không cần vội vã đó con.

Thằng bé im lặng. Rồi bất chợt nói:

– Giờ phải sống…chậm lại thôi! Mà làm sao mới là chậm?

Ông già cười khẽ. Một nụ cười pha chút ngạc nhiên. Ừ thì, có ai ngờ một thằng nhóc mười hai tuổi lại quan tâm đến chuyện “sống chậm” giữa phố thị cuồng quay?

– Sao con lại hỏi vậy?

Merci ngập ngừng:

– Tại vì... từ khi con có điện thoại, con thấy... con giống người lớn hơn. Nhưng... cũng buồn hơn. Thấy thời gian đi nhanh hơn. Chiều hôm qua, lúc đang nghe radio, thấy gió thổi qua mặt... con chợt nghĩ, hình như... mình đang lớn, và xa dần.



Ông già nghe tiếng tim mình chùng xuống. Đèn xanh. Ông già gạt chân chống, đạp ga, nhưng tâm trí vẫn lững lờ như khói chiều.

Chúng tôi dừng xe ở công viên cạnh bến Bạch Đằng. Gió sông thổi mát rượi, át đi tiếng còi xe và tiếng người hò hét đổ về phố đi bộ. Hai cha con ngồi trên ghế đá. Merci mở sách ra đọc, nhưng i biết nó không thật sự đọc.

Ông già quay trở lại trả lời cho câu hỏi “làm sao sống chậm” của thằng nhóc: 

–Khi con nghe được tiếng thở của mình, ở mỗi bước đi... đó là lúc con đang sống chậm lại.

Thoáng. Hình ảnh thiền sư tên là Thích Nhất Hạnh từng nói: “Sống chậm không có nghĩa là đi chậm. Mà là ý thức được từng bước mình đang đi, từng hơi thở mình đang thở.” 

Merci ngẩng đầu:

– Nhưng làm sao nghe được hơi thở? Con thở hoài mà đâu có nghe gì đâu?

– Vậy là con thở mà chưa biết là con đang thở. Giống như nhiều người sống mà không biết mình đang sống vậy. Họ làm việc, học hành, ăn uống, chơi game... nhưng quên mất mình là ai. Mình muốn gì. Và quan trọng nhất – mình đang ở đâu.

Trời dần tối. Đèn đường sáng lên vàng vọt. Xa xa, tiếng nhạc thử loa vang vọng từ quảng trường Nguyễn Huệ. Merci bất chợt dựa đầu vào vai ông già.

– Ba...

– Hử?

Thấp thoáng. Ông già nhớ lời thằng nhóc của hơn năm năm về trước. Ngô nghê: Con không muốn lớn, con không muốn ba già... rồi mất. Lúc ông già giải thích về chuyện tử sinh. Quá sớm 

“Tình yêu thật sự không bao giờ mất đi. Nó chỉ thay đổi hình thức tồn tại.” 

Trích nhật ký tối hôm đó:

"Có những chiều Sài Gòn, lòng người như chậm lại. Không vì kẹt xe, không vì mỏi mệt. Mà vì trong một khoảnh khắc nhỏ xíu nào đó, ta nghe thấy tiếng thở của mình. Và cả tiếng của người bên cạnh – nhẹ, đều, và thật."

"Cảm ơn con, Merci, vì đã dạy ba sống chậm."

***

"When You Learn to Hear Your Own Breath..."

(One day before April 30th, in the heart of Saigon)

A city that has passed through war.

A city that is moving toward the future.

The streets of District 1 gleamed like a vast stage. After parting ways at a Battery, a café and bakery where everything was handmade—thanks to a recommendation from his sister through Facebook—the old man and the young boy continued their journey.

April’s weather in Saigon was much like any other day—warmth building toward the end of the day, crowded streets, and a strange kind of brilliance. Yet today, the city seemed more colorful. Along Hai Ba Trung Street, billboards celebrating the 30th of April filled the air. People flooded to Nguyen Hue Walking Street, squeezing together to get a view of the artillery guns, ready to shoot into the sky after helicopters and fighter jets performed.

– Dad, should we watch the parade tomorrow?

– Sure, if you want. But not too close, it’ll be too crowded.

The old man chuckled softly, glancing in the rearview mirror to see the boy clutching the newly bought book, Fishing in the Sky. A whimsical title, almost like a poem. Yet the boy had insisted on buying it. Somewhere, he had heard of the author's journey to conquer the impossible, and after much searching, they found it at a bookstore on Nguyen Hue, on sale.

The city felt both bustling and solemn, unfamiliar.

The scent of freshly cut grass from the green lawns in front of the City Hall mingled with the still-drying paint of hastily put-up signs.

The boy turned and whispered,

– Now that I have a phone, I feel... I feel older. I’m not a kid anymore, am I?

The old man fell silent, as if giving the boy space to reflect on memories of his childhood. Memories are the past. His boy must miss the feeling of being held in the backseat, no longer completing a full circle of an embrace. His boy from the days when he followed him everywhere—the streets of the city, after school, those summer days spent from dusty roadside cafés to office desks.

Time flies too quickly. Grow slowly, so you can love deeply. The old man recalled the words he often said to his children.

– Yeah, it’s like... living without rushing.

The boy was quiet for a moment. Then he suddenly asked,

– So now we need to... slow down? But how do we slow down?

The old man smiled gently, with a hint of surprise. Who would have thought a twelve-year-old would care about "slowing down" in this fast-paced city?

– Why do you ask?

Merci hesitated,

– Because... since I got the phone, I feel... more like an adult. But... also sadder. I feel time passing by faster. Yesterday afternoon, while listening to the radio, I felt the wind on my face... and I suddenly thought, maybe... I’m growing up, and drifting away.

The old man's heart sank. The green light. He kicked the stand, revved the engine, but his mind lingered, like the smoke of the evening.

They stopped at a park by Bach Dang Pier. The river breeze was cool, drowning out the honking horns and the shouts of people heading to the walking street. Father and son sat on a bench. Merci opened the book, but the old man knew he wasn’t truly reading.

The old man returned to the question, “How do we slow down?”

– When you can hear your own breath, with every step... that’s when you are slowing down.

A fleeting thought. The image of the Zen master Thich Nhat Hanh saying, "Slowing down doesn’t mean walking slowly. It means being aware of every step, every breath you take."

Merci looked up,

– But how do you hear your breath? I’m always breathing, but I don’t hear anything.

– That means you’re breathing without knowing it. It’s like so many people living without knowing they’re alive. They work, study, eat, play games... but forget who they are. What they want. And most importantly—where they are.

The evening darkened. The streetlights flickered to life, casting a yellowish glow. In the distance, the sound of speakers testing echoed from Nguyen Hue Square. Merci suddenly leaned his head on the old man’s shoulder.

– Dad...

– Hmm?

Faintly. The old man remembered what the boy had said more than five years ago. Innocently: I don’t want to grow up, I don’t want you to get old... and disappear. That was when he explained life and death to him. Too soon.

“True love never really fades away. It only changes its form of existence.”

From his diary that night:

“There are some Saigon evenings when the hearts of people seem to slow down. Not because of traffic jams or fatigue. But because in one tiny moment, we hear our own breath. And the breath of the one next to us—gentle, even, and real.”

“Thank you, Merci, for teaching me how to slow down.”

[Sách] Mọi nơi vụn vỡ - Chú bé mang Piyama sọc (P2) John Boyne

Khi bóng tối của quá khứ vẫn còn vương lại nơi ánh sáng hiện tại

Sức nặng và sự ám ảnh của phần một vẫn còn đó. Hình ảnh cuối cùng của chú bé mang pyjama sọc mang một cái kết mở, vừa gây ám ảnh và tò mò của một thời diệt chúng của loài người. Liệu rằng số phận của cả hai chú nhóc ra sao, liệu những con người của ngày đó sẽ như thế nào. 

Dẫu vậy, việc tác giả chạm vào nhân vật mình một lần nữa khi quyển sách đã khép lại là một sự liều lĩnh

https://chienphan.blogspot.com/2025/04/sach-chu-be-mang-pyjama-soc-john-boyne.html

“Mọi nơi vụn vỡ” là câu chuyện nối dài từ cuốn sách nổi tiếng Cậu bé mang pyjama sọc – nhưng lần này, John Boyne chọn một góc nhìn gai góc hơn: từ phía người sống sót và phải mang theo mặc cảm suốt đời.

Gretel Fernsby, một người phụ nữ 91 tuổi sống ở London, đã từng là cô bé chứng kiến thảm kịch của trại tập trung trong Thế chiến II. Nhưng cuốn sách không chỉ kể về lịch sử hay tội lỗi. Nó kể về cái giá của sự im lặng, về sự trốn chạy, và sự chuộc lỗi trong cuộc đời mỗi người.

“Chúng ta có thể chạy trốn nhiều thứ trong cuộc đời. Nhưng không thể chạy trốn khỏi chính mình.”

Boyne viết bằng giọng văn nhẹ như gió thoảng nhưng sức nặng như đá đè. Qua từng trang sách, người đọc không chỉ thấy một bà lão điềm đạm, mà thấy một tâm hồn đầy vết nứt – những vết nứt cô cố giấu, nhưng không bao giờ biến mất.

Gretel mang trong mình một sự dằn vặt thầm lặng: cô không phải là thủ phạm, nhưng cũng chẳng thể là người vô can. Cô lớn lên cùng bí mật ấy, đổi họ, chuyển nơi sống, làm mọi cách để không ai biết mình từng là ai. Nhưng rồi, một sự kiện trong toà nhà cô ở đã kéo quá khứ quay về, buộc cô phải chọn: tiếp tục lẩn trốn, hay đối mặt?

"Không phải lúc nào im lặng cũng là lối đi nhân đạo. Đôi khi, im lặng là một tội ác."

Mọi nơi vụn vỡ gợi nhắc ta rằng sự tha thứ không dễ dàng, và quên lãng không phải lúc nào cũng là cứu rỗi. Nó cũng khơi lên một câu hỏi sâu sắc: Liệu những đứa trẻ lớn lên trong cái ác có thể được tha thứ vì chúng không có lựa chọn? Hay chúng cũng phải gánh chịu di sản của thế hệ trước?

“Có những điều chúng ta gắng sức chôn vùi suốt đời, nhưng chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng đủ bới lên tất cả.”

Cuốn sách không có những bước ngoặt giật gân, nhưng chính sự bình thản đáng sợ của nó mới khiến người đọc ám ảnh. Không ai gào thét, không ai oán trách. Chỉ có những ký ức rỉ máu, từng giọt, từng giọt, trong tâm trí Gretel.

 ***

When the Shadows of the Past Still Linger in the Light of the Present

The weight and haunting memory of the first book remain.

The final image of the boy in the striped pyjamas left an open-ended conclusion — at once disturbing and tantalizing — to an era marked by humanity's darkest atrocities.

What happened to the two boys? What became of the people from that time?

These questions hung in the air.

Still, it was a daring choice for the author to revisit his characters once more, long after the book had closed.

(Source: https://chienphan.blogspot.com/2025/04/sach-chu-be-mang-pyjama-soc-john-boyne.html)

All the Broken Places continues the story from The Boy in the Striped Pyjamas — but this time, John Boyne chooses a far sharper perspective: that of the survivor, burdened by a lifelong guilt.

Gretel Fernsby, a 91-year-old woman living in London, was once a young girl who witnessed the horrors of a concentration camp during World War II.

Yet this book is not merely a tale of history or guilt.

It is about the cost of silence, the instinct to flee, and the long, painful road toward redemption in a human life.

"There are many things we can run from in life. But we can never run from ourselves."

Boyne writes with a lightness like a whisper, yet the emotional weight hits like a stone.

Through every page, the reader does not just see a composed elderly woman; they glimpse a soul riddled with cracks — fractures she tries desperately to hide, but which never truly heal.

Gretel carries a silent torment: she was not the perpetrator, yet she cannot claim innocence.

She grew up shackled to this secret, changing her name, relocating again and again, doing whatever it took to bury the past.

But an unexpected event in her apartment building drags that past back into the light, forcing her to choose: continue hiding, or finally confront it?

"Silence is not always the humane choice. Sometimes, silence is a crime."

All the Broken Places reminds us that forgiveness is never simple, and forgetting is not always salvation.

It raises a profound, unsettling question:

Can children raised within evil be forgiven because they had no choice? Or must they, too, bear the sins of the generations before them?

"There are things we spend our whole lives trying to bury, but a single gust of wind can unearth them all."

The novel does not rely on shocking twists; instead, it unsettles through a terrifying calm.

There are no screams, no accusations — only memories bleeding slowly, drip by drip, within Gretel’s mind.

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Nhật ký của cha - Julie - Con gái "bia" [Dad's diary - Julie - My beer-girl daughter]



Buổi tối bình thường, căn nhà nhỏ trong hẻm lại sáng đèn như mọi lần. Mùi cơm canh còn vương trên bàn, tiếng quạt máy trên lầu quay đều đều trong nền giai điệu quen thuộc của một bài hát ru ngày cũ:

"À ơi... Con cò bay lả bay la, bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng..."

Julie – cô nhóc út, má phính, tóc ngắn ngủn, đang ngồi trong lòng ông già, tay còn vương vãi ít màu nước từ buổi vẽ chiều nay. Hai ông anh, Merci và Lavie, lượn lờ vẫn còn tiếc nuối một ngày cuối tuần chưa thôi, vì được bà vú “triệu hồi” lên ngủ đúng giờ, ánh mắt liếc xéo về phía “nữ chính”.

Ông già cười, vòng tay ôm Julie chặt hơn một chút, rồi thì thầm vào tai cô bé:

Thương công chúa của ba, có thương ba không?

Julie ngẩng lên, cười toe toét, đặt môi mềm lên má của ông già.



Ông già quay sang hỏi tiếp cùng một câu với hai thằng nhóc của mình. 

Merci nhăn mặt, ngả người lên sofa, phản pháo: – Ba nói với con gái guộc của ba đi. Con gái “bia” của ba đi… Anh chàng đắc chí khi tìm được từ mới miêu tả về tình cảm của ông già dành cho cô con gái.

Lavie liền hùa theo, giọng xầm xì: – Ừ, chỉ có con lùn là con gái ba thôi, con đâu phải!

Cả hai nhìn nhau, rồi cùng quay sang nhìn ông già bằng ánh mắt nửa đùa nửa dỗi. Julie thì ngó nghiêng như không hiểu chuyện gì vừa xảy ra, rồi ôm cổ ba chặt hơn, như thể khẳng định chủ quyền.

Ông già phì cười: – Đứa nào cũng thương hết. Nhưng mà, em là con gái mà, con gái là đặc biệt. Con gái là...

Ông ngừng lại, lấy giọng như kể chuyện cổ tích: – ...là tiếng ru hời được ôn lại và là người cần để bảo vệ, như những nàng công chúa trong mấy câu chuyện kể của ông già, mắc phải lời nguyền nên cứ mỗi độ trăng tròn lại biến thành xấu xí, chờ đợi một hoàng tử đến chiến đấu với quái vật để phá giải lời nguyền. 

Rồi. Lời nguyền chắc chắn sẽ được phá giải bởi một…chằng tinh, công chúa lại trở nên…xấu xí. Đổi lại là một tình yêu thật sự của đời mình. 



Julie tròn mắt như thể hỏi ông già: –  là tiếng ru hả ba?

– Ừ, là tiếng ru... mà giờ thì ba ru con lại. “Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng, về sông ăn cá, về đồng ăn cua…” hay mấy lời “ầu ơ, Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi. Con đi trường học. Mẹ đi trường đời”

Ngưng. Nghĩ. Có phải: "Con gái là con người ta, Con dâu mới thật là cha mẹ mình..."? 

Sợ. Mất. Nên. Ông già phải thương thiệt nhiều, thiệt đậm, thương như thể ngày mai là nhỏ lớn, nhỏ đi lấy chồng, ông già còn lại hai ông anh cứ sáp lại là cãi nhau hoài này thôi.

Lavie lập lại: – Con không phải con ba!

Ông già xoa đầu Lavie: – Con là anh cũng phải thương em chứ, em gái dễ thương mà .

Merci lí nhí: – Con gái “thúi” và “quậy” của ba.

Tiếng cười bật lên. Căn phòng nhỏ như được sưởi ấm bởi một điều không tên. Bên ngoài, đèn đường vừa mới lên, ánh vàng rọi qua khung cửa sổ, như một dải lụa buộc lại thời gian.

Julie ngồi trọn trong người đùi ba, ngáp dài. Ông già nhấc bổng cô nhóc, đưa lên đi ngủ, để bắt đầu hành trình đi tìm lại những câu chuyện, lời ru

...

Đêm xuống, tiếng chó sủa văng vẳng bên song cửa. Ông già nằm giữa ba đứa nhóc, tay gối đầu cho Julie, chân vắt ngang chân Lavie, còn Merci thì ngồi vẽ gì đó trên tấm bảng từ …không hí.

Ông già nghĩ, có lẽ không phải chỉ vì Julie là con gái. Mà vì khi có con gái, người cha mới học được cách dịu dàng. Học cách để lắng nghe, để bảo vệ, để biết rằng có một nụ cười nhỏ thôi cũng khiến ngày dài tan biến.

Và cũng học cách để nói lời yêu thương nhiều hơn.

“Ba thương con.”

Câu nói giản dị, mà bao lần phải đợi đến tối, đến lúc gió lùa vào căn hẻm nhỏ, lòng người mới đủ yên để thốt ra.

Julie, như hiểu, rúc vào ngực ba: – Con biết.

Đêm khép lại như một trang sách, gấp nhẹ bằng hơi thở của cha – và những điều không nói thành lời.

***

A regular evening. The little house tucked away in a narrow alley lit up as usual. The scent of warm dinner still lingered on the table, while the ceiling fan upstairs hummed steadily against the backdrop of a lullaby from days gone by:

"À ơi... The stork flies low and flies high, from the palace gate to the open field..."

Julie – the youngest, with chubby cheeks and a boyish haircut – sat on her father’s lap, watercolors still smudged on her hands from the afternoon’s painting session. Her two older brothers, Merci and Lavie, were still loitering around, unwilling to let go of the weekend, shooting side-eyes at the “leading lady” who had been summoned upstairs by the nanny for bedtime.

The father smiled, holding Julie a little tighter, and whispered in her ear:

“My little princess, do you love Daddy?”

Julie looked up, grinning wide, and planted a soft kiss on his cheek.

Then the father turned to his sons and asked the same question.

Merci made a face, flopping onto the sofa:

“Go say that to your delicate daughter. Your beer-girl daughter…”

The boy smirked, proud of the new word he’d come up with to describe his dad’s obvious favoritism.

Lavie chimed in, muttering:

“Yeah, only shorty here is your daughter. We’re not!”

The two boys exchanged glances and turned to look at their dad with mock-pouting eyes. Julie looked around, confused by the commotion, then clung tighter to her dad’s neck, as if claiming her territory.

The father chuckled:

“I love all of you. But she’s a girl – and girls are special. Girls are…”

He paused, then shifted into storytelling voice:

“…they’re the lullabies replayed through time. They’re the ones who need protecting – like the princesses in old tales, cursed to turn hideous every full moon, waiting for a brave prince to slay the monster and break the spell.

And yes, sometimes, the spell might be broken by an ogre, and the princess becomes… ugly again. But in return, she finds true love – the one meant for her.”

Julie’s eyes widened, as if asking:

“So… I’m a lullaby, Daddy?”

“Yes, a lullaby,” he smiled. “And now it’s time for Daddy to sing you one:

‘Winds sway and push the little one to the fields for crabs, to the rivers for fish, to the rice paddies for snails…’

Or maybe something like:

‘Ầu ơ... If the plank bridge is nailed tight,

The bamboo bridge will wobble and sway,

It’s hard to cross, so Mom holds your hand.

You go to school, Mom goes to life’s school…’”

He paused. Thought.

Is it really true that “a daughter is someone else’s child; only a daughter-in-law becomes truly yours”?

Fear. The fear of losing.

And so he must love her – deeply, fiercely – as if tomorrow she’d grow up and marry, leaving him with two sons who never stop bickering when they’re together.

Lavie said again:

“I’m not your child!”

The father ruffled Lavie’s hair:

“You’re the big brother – you still have to love your sister. She’s adorable, isn’t she?”

Merci muttered:

“Your stinky, rowdy daughter…”

Laughter erupted. The little room warmed with a tenderness that had no name. Outside, the streetlamp just lit up, casting golden light through the window like a silk ribbon tying time in place.

Julie sat curled in her father's lap, yawning. He lifted her in his arms and carried her to bed, beginning the night’s journey to rediscover stories and lullabies…

Night fell. A dog barked faintly outside.

The father lay in the middle of his three kids – Julie’s head rested on his arm, his leg stretched across Lavie’s, while Merci sat sketching something on a drawing board from who knows where.

He thought:

Maybe it wasn’t just because Julie is a girl.

Maybe it’s because having a daughter teaches a man how to be gentle.

How to listen.

How to protect.

How a small smile can dissolve the weight of an entire day.

And how to say “I love you” more often.

“I love you,” he said quietly.

A simple sentence – but one that waited until nightfall, when the wind whispered through the alley, and hearts were still enough to let it out.

Julie, as if she understood, nestled into his chest.

“I know.”

And the night closed like a book page, folded softly with a father’s breath – and all the things he didn’t say out loud.

[Sách] Hippie những kẻ lãng du - Paulo Coelho

 "Hippie – Những kẻ lãng du": Khi tuổi trẻ là một chuyến đi không cần bản đồ

Gặp lại Paulo Coehho, sau hành trình gần mười năm, từ "Nhà Giả Kim", đến "Điệp Viên, rồi gần nhất là "Aleph" và bây giờ là "Hippie những kẻ lãng du" 

https://chienphan.blogspot.com/2020/01/review-sach-iep-vien-paulo-coello.html

https://chienphan.blogspot.com/2023/09/sach-aleph-paulo-coelho.html

"Nếu bạn muốn sống cuộc đời mình một cách tự do, bạn phải từ bỏ sự kiểm soát của người khác đối với bạn."

Sự mong manh của tuổi trẻ; dù ở thời điểm nào, sự lạc loại hoang mang tìm ra con đường để biết rõ chính mình. 

"Hippie" không phải là một tiểu thuyết với cao trào rõ ràng hay những cú twist gay cấn. Nó giống một cuốn nhật ký bán hư cấu, nơi Paulo Coelho kể lại chính hành trình của mình trong những năm 1970 – một chàng trai trẻ mang khát vọng phá vỡ những giới hạn truyền thống, dấn thân vào con đường lữ hành xuyên lục địa để đi tìm "tự do thật sự".

Bắt đầu từ Amsterdam, đến Istanbul rồi Nepal, hành trình trên chiếc xe Magic Bus không chỉ là địa lý, mà là hành trình vào nội tâm – nơi con người buộc phải đặt câu hỏi: “Mình đang sống vì điều gì?”

“Con người dành phần lớn cuộc đời để chờ đợi điều gì đó xảy ra. Nhưng khi điều ấy xảy ra, họ lại không sẵn sàng.”

Ta sẽ gặp Karla, cô gái Hà Lan cá tính, thông minh, và cũng đang trên hành trình tìm hiểu bản thân. Cuộc gặp gỡ giữa Karla và Paulo là một phần rất "con người" trong cuốn sách – vừa nhẹ nhàng, vừa phức tạp. Tình yêu trong Hippie không ồn ào, không giằng xé – nó là sự đồng hành trong một đoạn đường, và có thể… cũng chỉ là một đoạn mà thôi.

“Không phải ai xuất hiện trong đời bạn cũng sẽ đi cùng đến cuối. Nhưng điều đó không làm họ trở nên ít quan trọng hơn.”

Không khí của “Hippie” mang một chút hoài niệm, một chút mơ mộng, và rất nhiều tự do. Nó khiến ta nhớ lại thời tuổi trẻ – khi ta từng mơ rũ bỏ mọi ràng buộc, đón gió bụi vào lòng và sống như thể ngày mai không tồn tại.

“Hãy để trái tim dẫn lối, vì lý trí thường quá bận rộn với những nỗi sợ.”

Bạn nên đọc "Hippie – Những kẻ lãng du" nếu:

Bạn từng ước được sống một cuộc đời không cần bản đồ.

Bạn đang thấy lạc lối và cần một lời nhắc: hãy cứ đi, rồi sẽ tới.

Bạn yêu những hành trình không chỉ bằng chân, mà bằng cả tâm hồn.

"Hippie" không cho bạn một câu trả lời. Nó trao cho bạn một tấm vé – để bạn tự bước lên chiếc xe của chính mình, và bắt đầu hành trình đi tìm ý nghĩa của hai từ "sống thật."

 ***

"Hippie – The Drifters": When Youth Is a Journey Without a Map

Reuniting with Paulo Coelho after nearly a decade-long journey—from The Alchemist, to The Spy, then Aleph, and now Hippie – The Drifters.

"If you want to live your life freely, you must give up other people’s control over you."

The fragility of youth—no matter the era—is marked by moments of feeling lost and confused while searching for a path that leads to one’s true self.

Hippie is not a novel with dramatic climaxes or shocking twists. It feels more like a semi-autobiographical journal, where Paulo Coelho recounts his own journey in the 1970s—a young man eager to break away from traditional constraints, embarking on a cross-continental adventure to seek out what it means to be truly free.

From Amsterdam to Istanbul and on to Nepal, the ride on the Magic Bus is not just a physical route—it’s an inward expedition. One that compels us to ask: “What am I really living for?”

“People spend most of their lives waiting for something to happen. But when it finally does, they’re not ready.”

We meet Karla, a bold, intelligent Dutch girl, also navigating her own path of self-discovery. Her encounter with Paulo is one of the most human elements in the book—gentle, layered, and quietly profound. Love in Hippie isn’t loud or tormented—it’s a shared stretch of the road, and perhaps... just a stretch.

“Not everyone who comes into your life is meant to walk with you till the end. But that doesn’t make them any less important.”

The tone of Hippie is nostalgic, dreamy, and full of freedom. It makes us remember our younger days—when we once dreamed of shedding every burden, embracing the road dust, and living as if tomorrow didn’t exist.

“Let your heart lead the way, because the mind is often too busy with fear.”

You should read "Hippie – The Drifters" if:

You’ve ever longed for a life without a map.

You feel lost and need a gentle reminder: just keep going, you’ll get there.

You love journeys that move not just your feet, but your soul.

Hippie doesn’t hand you answers. It hands you a ticket—to board your own bus, and begin the journey toward discovering what it means to truly live.

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2025

Nhật ký của cha - Chuyện của ngày không bình thường - Làm gốm [Dad's diary - Story of an Unusual Day - Making Pottery]

 


Sáng chủ nhật.

Sài Gòn mờ như một tấm ảnh cũ chưa tráng xong, lặng lẽ trôi giữa tiếng lá dầu rơi lăn tăn như hạt mưa trên phố Tú Xương. Thành phố rục rịch đón ngày lễ lớn – 30 tháng 4 – tròn nửa thế kỷ, nhưng không khí rộn ràng lại gợi nhớ đến những trang truyện cổ tích đang chuẩn bị lật sang chương mới. Cờ hoa phấp phới như váy công chúa, âm thanh kèn trống như nhạc nền của một vở kịch sắp hạ màn. Trong khi cả thành phố sống lại cùng quá khứ, có một ông già lại chọn bắt đầu một hành trình rất khác: đi làm gốm.

Thi thoảng. Ông già nếu soi qua gương; tóc hẳn đã điểm sương, sống chậm như truyện Andersen kể chậm lúc đêm khuya. Hôm qua, ông già viết hẳn một bài về “Ngày bình thường” – chủ đề nghe tưởng như đơn giản nhưng lại gợi nhiều nghĩ ngợi. Người dẫn chuyện là Merci – một cậu bé như Tí Hon phiên bản Sài Gòn, mắt sáng, tóc rối như đám mây bông lúc chiều, hay nói ra những câu triết lý bất ngờ.


Nên. Hôm nay là ngày ông già chuẩn bị cho một cuối tuần khác biệt đi. Ông già, em và ba đứa nhóc lửng thửng bước vào trong con hẻm của Tú Xương.

Nicotin – cái tên nghe như một đoạn jazz nhẹ khói, là quán cà phê nằm khuất trong một biệt thự kiểu Pháp cổ. Nếu “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” là thật, chắc hẳn nó cũng mang dáng dấp nơi này: tầng trệt là quán cà phê, tầng hai là xưởng gốm, và tất cả hòa quyện như một bản phối giữa thời gian và ký ức. Kết nối thông tầng, với sàn lửng là điểm nối giữa mặt đất và tầng hai. Chất liệu đa phần là gỗ và sắt; những kiến trúc cũ đều được tận dụng lại tối đa, đến cả thùng trữ nước đầy hoài niệm cũng biến thành một bàn cafe vừa đủ cho hai người. 

Nhà màu vàng nhạt, tường loang như da một ông lão từng trải. Ban công có giàn hoa giấy rủ xuống như tóc nàng Bạch Tuyết sau khi tỉnh dậy và học trồng cây. Cầu thang uốn lượn như sóng sánh trên sông ngồi nghe kể một câu chuyện cũ. 

Nhưng điều kỳ diệu – lại nằm trên gác.


Lầu hai – là xưởng làm gốm.

Ánh sáng nhân tạo của chiến đèn khối vuông lơ lửng, rọi lên bàn xoay đất sét, khiến căn phòng như một chiếc hộp phép thuật trong truyện của Mary Poppins – mỗi khi mở ra lại dẫn vào một cuộc phiêu lưu mới.

Ở đây có mùi của đất – thứ đất mộc mạc như chiếc áo nâu của ông Lão đánh cá – lẫn với hương hoa khô, mùi men gốm, và tiếng cười phấn khích của trẻ con rộn như tiếng chim sẻ ríu rít gọi hè. Bàn đối diện, có những đứa trẻ “sống lâu” Âu, Á đang ngồi cùng bạn gái nhào nặn cục đất tạo hình. 

Không ai là “người dạy” cố định. Người hôm nay dạy có thể ngày mai là học trò. Không có ai mang danh “thầy”, nhưng ai cũng mang trong mình chút ma thuật như bà Tiên trong truyện cổ: chạm tay vào đất, và biến nó thành chén, thành đĩa, thành vật gì đó vừa hữu hình vừa mang linh hồn.

Người giữ nhịp ở đây là một cô gái nhỏ nhắn, dáng đi nhanh nhẹn, ánh mắt lúc nào cũng long lanh như giọt sương trên lá. Hỗ trợ là bốn người, một bạn gái dùng tiếng Anh để hướng dẫn ở bàn bên và các chàng trai chia nhau ra để hỗ trợ người mới “bước vào làm”


Có chàng trai đang là sinh viên RMIT.

Julie – cô bé út 6 tuổi, má phính, tóc ngắn – đang cố gắng cặm cụi nặn một cái chén nhỏ xíu, như bát súp của Gấu Con trong truyện “Ba chú gấu”. Em ngồi bên, vừa hướng dẫn nhẹ nhàng, vừa kiên nhẫn.

Lavie – cậu nhóc giữa – đang cố gắng nặn một cái ly, sự kiên nhẫn của anh chàng thiên về vận động là có giới hạn khi cứ phải tỉ mỉ từng chút để ngắm sản phẩm tạo hình như kim đồng hồ tích tắc. 

Rồi một biến cố nhỏ xảy ra – như đoạn lật trang bất ngờ trong truyện cổ Grimm.

Julie đã làm sứt một mảng mép. Cái chén bé tí mà như cả vũ trụ vỡ ra.

Em cười, nhẹ như gió:

“Không sao. Con gái. Có gì là hoàn hảo đâu”

Chợt. Nhớ. Điều đã đọc.

Ở Nhật, người ta gọi đó là Kintsugi – nghệ thuật vá gốm bằng vàng. Vì vết nứt là nơi ánh sáng có thể đi qua.

..

Trưa buông xuống như tấm khăn voan mỏng của công chúa ngủ trong rừng. Công đoạn tạo hình bắt đầu thuần thục ngon hơn với ngón cái, bàn xoay, để rồi bước qua tô màu và khắc chữ trước khi nung. 

Cô nhóc Julie và anh chàng Lavie chẳng thể chờ đợi đến giai đoạn cuối. Tuột. Ông già và hai đứa, thưởng thức hoa nắng của ban trưa đang soi rọi xuống nền sân quán cafe bên dưới.

Merci bảo sẽ quay lại đây tuần sau. Chú nhóc thích nơi này – nơi không ai bị giục, nơi có đất, có tiếng kể chuyện, và có những người không ngại làm lại từ đầu.

Còn ông già – ngồi lại lâu hơn.

Ông nhìn căn nhà, nhìn xưởng gốm, rồi nghĩ: có những ngày không cần lên kế hoạch, không cần thành tích, cũng không cần lý do.

Chỉ cần được ở bên nhau, và tạo ra điều gì đó bằng tay mình – như một đoạn nhạc thiếu nhi dịu dàng giữa phố thị xô bồ.

Một ngày không bình thường.

Nhưng đẹp như một trang sách chưa gấp lại.

Khi gia đình cùng cười.

Khi đất mềm theo tay.

Khi chén gãy – lại thành tuyệt tác.

***

Sunday Morning.

Saigon was hazy like an old photograph yet to be developed, quietly drifting under the whisper of falling Dipterocarp leaves, like raindrops pattering on Tu Xuong street. The city stirred in anticipation of the grand holiday—April 30th—marking half a century. But the celebratory air felt more like pages of a fairy tale about to turn. Flags fluttered like a princess’s dress; the trumpets and drums, the background music of a play nearing its final act.
While the whole city seemed to relive the past, an old man chose to begin a different kind of journey: to make pottery.

Sometimes.
If he looked in the mirror, the old man would see hair touched by frost, moving at the slow pace of an Andersen bedtime tale. Yesterday, he wrote a piece titled “An Ordinary Day”—a theme that sounded simple but stirred unexpected thoughts.
The narrator was Merci—a boy like Saigon’s own Tom Thumb, bright-eyed, with hair tousled like a cotton cloud at dusk, and a knack for saying surprisingly wise things.

So. Today, the old man prepared for a different kind of weekend. He, the mom, and their three little ones wandered down a quiet alley off Tu Xuong.

Nicotin—a name like a soft jazz tune—was a café hidden in an old French villa. If Little House on the Prairie were real, it might have looked like this. The ground floor was a café; the second floor, a ceramic workshop. Together, they blended like a symphony of time and memory. A mezzanine connected the floors—a wooden and iron bridge between now and then. Old materials were reused as much as possible; even a nostalgic water tank had become a cozy two-seat café table.

The house was painted pale yellow, its walls weathered like the skin of a seasoned elder. Bougainvillea trailed down the balcony like Snow White’s hair after she woke up and learned to garden. The staircase curved like a river listening to an old tale.

But the magic—was upstairs.

The second floor was the pottery studio.
The room was lit by soft cube-shaped hanging lamps that glowed over the pottery wheels, transforming the space into a magical chest straight out of Mary Poppins—each opening a new adventure.

The air smelled of clay—raw and honest, like the fisherman’s brown robe—mixed with dried flowers, ceramic glaze, and the delighted laughter of children, chirping like sparrows calling for summer.
Across the room, children from Europe and Asia shaped clay beside their girlfriends.

No one was the "permanent teacher".
The teacher today could be tomorrow's learner.
There were no grand titles—only people with a little magic, like fairy godmothers from old tales: touch the clay, and turn it into bowls, into plates, into something both tangible and soulful.

The one keeping rhythm was a petite girl, quick on her feet, her eyes always sparkling like dewdrops on leaves. She was assisted by four others—one girl spoke English at the table nearby, while young men moved among the newbies to offer help.

One of them was a student at RMIT.

Julie—the youngest at six, chubby cheeks, short hair—was busy molding a tiny bowl, no bigger than Baby Bear’s porridge bowl from Goldilocks and the Three Bears. Her mother sat beside her, guiding patiently, gently.

Lavie—the middle boy—was shaping a cup. His sporty nature tested his patience, especially with the need to carefully refine each detail, watching his creation tick like a clock.

Then, a small mishap—like a sudden plot twist in a Grimm tale.

Julie cracked the rim of her tiny bowl.
And it was as if her whole universe had shattered.

Her mother smiled, soft as a breeze:
“It’s okay, my girl. Nothing in life is perfect.”

Suddenly. A memory resurfaced.
In Japan, they call it Kintsugi—the art of mending pottery with gold.
Because the cracks are where the light gets in.

Noon fell like Sleeping Beauty’s sheer veil.
The kids’ fingers had gotten used to the clay. The wheels spun, shaping bowls, leading to the next step: coloring and carving before the kiln.
Julie and Lavie couldn’t wait for the final steps. They slipped away with their dad, basking in the golden sunlight pouring into the café courtyard.

Merci said he wanted to come back next week.
He liked it here—a place where no one rushed you, where there was earth, storytelling, and people unafraid to start over.

And the old man—he stayed longer.
He looked at the house, at the studio, and thought:
There are days you don’t need a plan.
Don’t need achievements.
Don’t even need a reason.

Just the chance to be together,
and create something with your own hands—
like a gentle lullaby in the chaos of the city.

An extraordinary day.
Beautiful like an open page.
When the family laughs.
When the clay yields.
When the broken bowl—becomes a masterpiece.

[Nhật ký của cha] Merci, ông già & con chữ

  Ai rồi cũng phải lớn! Ông già nhận ra điều đó khi ngồi ly trà cúc còn ủ hơi nóng ở một đêm cuối hạ, lắng nghe thằng nhóc Merci nói bằn...