Chiến Phan

Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2025

[Story] Nghe gió xuân sang - the whisper of spring winds

                                           


“Xin trả tôi về ngày xưa thơ mộng đó

Bên mái tranh chiều ngồi ngắm áng mây trôi”

Cá lội dưới sông, ngóp nước, thì thầm: Ê! Ba lá mày thấy không? Có gã đàn ông lạ mới về trong đêm ở cồn mình! 

Đêm ấy, bên cồn. Trời quê trong vắt, lấp lánh ánh sao. Gã ngồi bắt chéo chân nhìn về phía con sông đen thẳm, dòng nước lặng lờ như đang cuốn theo những kỷ niệm cũ. Cafe và khói thuốc. Bay. Gió từ sông thổi lên một vị ngọt lành.

Gã không ngủ được. Bao cảm xúc lẫn lộn xâm chiếm, giữa hoài niệm và hiện thực. Ngày xưa, gã từng nghĩ mình có thể nắm giữ cả thế giới trong tay, nhưng cuối cùng, những gì gã đuổi theo chỉ là những giấc mơ trống rỗng. Thành phố hoa lệ đã từng là giấc mộng, giờ đây là nơi gã nhận ra mình mất mát nhiều hơn những gì đã đạt được.





Ngay khi xuống sân bay là đi thẳng một mạch. Ra thẳng bến xe, bắt xe đò, đến nơi thì chiều lên, chiếc xe ôm đưa gã đi thăm lại những nơi quen thuộc. Cây cầu treo năm nào nay đã thay bằng cây cầu bê tông kiên cố, dòng sông từng in bóng tuổi trẻ giờ trở thành tuyến đường giao thương nhộn nhịp. Trong gió, gã ngửi thấy mùi của lá xanh phũ ở hai bên đường. Ngọt ngào. Chất ngọt của phù sa và dòng sông bao năm bồi đắp. 

Một vòng. Loạng choạng tối. Chẳng vội. Gã dừng chân trước sau khi đi dạo một vòng, vòng vèo, dừng ở một quán cà phê nhỏ nằm nép bên cầu, ngó qua bên kia sông. 

Mới tám giờ đêm, cồn như muốn tắt đèn đi ngủ. 

..

Ba lá lắc lư: Gã này quen mà! Đi rồi trở về thôi! 


“Sáu tám Café” – tên quán, ghép của mẹ và con gái, nét chữ và màu của một thập niên tám mươi. Thời gian như đạn bắn. 

Cá quẫy dưới sông, gợn sóng, thì thào: Mẹ chẳng còn, cô gái thì mồ côi, tiếp tục một cái nghề trông coi quán. 

Cô quán nước gã cười chào tươi rói, ánh mắt sáng trong như dòng sông xưa soi rọi dưới ánh trăng đêm, má trắng hồng như thể sóng nước dạt dào làm cho mặn mà của lứa nửa chừng xuân.

Gã ngồi xuống một góc quán, gọi ly cà phê đen. Quán nhỏ chỉ bắt vài cái bàn, dăm ba cái ghế, mấy ly cafe buổi tối với một ấm trà bằng nhôm, vài ly nhỏ uống trà. Vị vẫn như xưa. Kế bên. Rộn ràng một bàn nhậu, mấy chú bác mặc quần đùi, áo thun bắt đầu nhấm nháp men cay, khà hơi, thả khói, quất một giọng cổ nghe ngọt như nước ngày xưa lòng phèn để uống. Mát lạnh. “Trăng ánh trăng khuya dần, thức trắng canh thâu mai làm cô dâu. Người ta chắc chắn là thương, đêm ngày chăm sóc lo nhiều hơn anh. Còn buồn sầu chi anh, hết đêm nay đôi mình cách xa. Ngày mai đây em sang cầu, trăng thu sầu bên cầu hẹn ước. Trời làm, hai đứa xa rời nhau, Thương làm sao, tóc xanh phai màu năm tháng, gả em ở bên ai rồi.” 

Một giọng nói cất lên từ phía sau:

“Anh có phải là… người từ thành phố mới về không?”

Gã quay lại. Cô quán nước nở nụ cười lộ hết hàm răng trắng sáng, như áng bình minh treo trên đầu mấy bông lúa ở hừng đông. Gợi tình. Gã gật đầu, cười: “Ừ, anh từ thành phố về lại thăm quê”

Nhấm nháp, vị đắng khét của cafe pha chút hương vị bắp, dẫu vậy gã vẫn thích cái dư vị của từng giọt cafe tí tách rơi trong đêm vắng, tiếng muỗi vo ve trong tiếng gió của đêm thổi từ cồn lên. Hí hửng. Hơn cái hơi lạnh tỏa ra từ chiếc máy lạnh, ở mỗi đầu sớm gã và con gã hì hục trong mấy chiếc máy pha từ Ý với giá trị hàng tỉ đồng. Đâu đó trong làn gió, có mùi của củi đủ nắng vừa đốt lên chụm lò. Gã nhớ mùi đốt đồng của năm xưa. 


Tiếng nhạc phát ra từ máy cassette.  

“Mẹ quê đun bếp nghèo thơm mùi rơm qua khói mờ

Vui tình quê trìu mến

Xin trả tôi về miền quê hương nhỏ bé

Có lũy tre vàng bờ lúa sát ven đê”

Cá lội dưới sông, quẩy đuôi: Từ lúc sinh ra đến giờ, tao mới thấy gã. Gã đi biệt xứ mới về à, thấy chẳng giống người ở đây, cũng chẳng giống mấy người từ phố về!?   

….

Nhấm nháp. Cô em quán nước hỏi thăm họ hàng. Họ hàng anh, những con người gắn chặt đời với cồn, nước lên thì sống với cá tôm, nước rút thì sống với mùa trái cây trĩu quá. Ngon lành. Nhà vẫn giữ nếp gia phong, căn nhà của quê cha đất tổ vẫn còn đó, chỉ là từ đường giờ chẳng phải con cháu trông coi, có mỗi một ông già thuộc mấy chi trong gia phả vẫn miệt mài khói hương cho cả một mảnh đất họ ở phía sau. Con cháu gửi tiền về để giữ lại một nếp gia phong, mấy người ở cồn chẳng còn nhớ nổi là con ai, trừ một ông già thuộc mấy chi trong gia phả. Miệt mài. Sắp xếp và viết đủ đầy tên họ của ông bà đến cháu con. “Chào cậu! Mới về hả”. Ông già nhận ngay ra gã lúc bước đến bậc thềm nhà, rồi sắp xếp cho gã gọn gàng một chỗ ngủ. Bước ra. Nắng đã giã biệt, chào trăng lên.

Mấy bận. Gã hít hà một mùi nhang khói, mùi của đất sình được đắp ờ bờ đê, mùi của chó phóng uế ở ven đường, mùi thoang thoảng của mấy loài hoa nở về đêm hòa vào trong mùi của cafe đưa lên. Nhiều lắm. Gã hít như thể vừa thở được lại. Dịch vừa qua.

Ba lá lắc qua lắc lại: Ngồi nghe hai người đó nói thì biết! Có gì mà vội vậy chèn? 



Bắt chuyện. Dễ dàng. Cô hàng nước bắt ghế sang ngồi cạnh. Kể. Chuyện về đời mình. Ngộ. Biết lạ thành ra cứ tuôn ra chẳng ngừng. Cô kể về quán cà phê này, nơi cô mở ra để kiếm sống và gìn giữ chút hơi thở quê nhà, sau những lần bôn ba ra phố. Ngợp, ngán. Qua sông đắm đò cũng một lần, gã chồng không biết vì sao cứ thế bỏ đi luôn sau khi cô gái đánh rơi …mất sợi dây gắn kết đời mình với gã là một đứa con. Gã chồng nói rằng xuất khẩu lao động để đổi đời. Rồi đời không biết đổi chưa, chỉ biết là như thể chim trời, cá nước bặt tăm. Có đợt gã về, nói lời gì đó như thể duyên mình chỉ đến đây thôi, như thể có duyên, không nợ. Khỏe. Cô hàng nước nói, thế thì thôi chẳng nợ. 

Cô bán quán về lại nơi mẹ mình sắt son gắn bó, với quán nước, nơi cưu mang đời mẹ con cô. Mẹ cô quán nước khá hơn cô, là gã đàn ông bỏ đi cũng để lại cho bà một đứa con là cô. Cồn đồn. Mẹ cô đuổi thẳng ông già cô, nói vòng vo tam quốc, chỉ mỗi chuyện muốn đổi thay. Khỏe. Mẹ cô nói cuốn gói đi ngay trong đêm trăng sáng, sông dập dờ vài con sóng vào bờ. Từ đó. Mấy gã trai ở cồn cứ thế lân la đến, hát mấy câu vọng cổ gọi đời, gọi thời. Đốp chát. Mẹ cô đối đáp từng gã trai ở cồn từ lúc tóc đen cho đến pha màu trăng soi ánh nước. Ngộ. Kệ. Mấy gã trai ở cồn vẫn cứ thế lân la đến, như thể đi riết thành quen, chẳng còn biết nơi nào khác, như thể thiếu nghe giọng chát đốp là chẳng thể ăn cơm.

Kể. Gã nói về những ngày ra phố, tâm trạng cũng giống cô, đời gã muốn phải có gì đó khác lạ, gã muốn đi thật xa, tìm về một miền đất hứa, nơi đó gọi là xứ sở cờ hoa. Ngập tuyết. Lạnh lùng. Đo xem có lạnh bằng lòng người hay không?

“Anh đã đi nhiều nơi, nhưng cuối cùng lại quay về đây,” cô mỉm cười, giọng nhẹ như gió sông. “Có lẽ, quê hương luôn là nơi người ta tìm đến khi đã mỏi mệt.”

“Cuộc trần gian quen lừa dối điêu ngoa

Còn được ai trong đời biết thương mình

Cá dưới sông: sao gã cứ nhìn lom lom qua bên này vậy?”

Ba lá rùng rình: xác ở bên cồn, hồn ở bên đây

Là cô – người phụ nữ năm xưa, giờ đây đã thành một người mẹ đầy đặn và điềm tĩnh. Trong ánh mắt cô, vẫn còn chút gì đó của cô gái bên cồn ngày nào, dù thời gian đã phủ lên mái tóc cô màu sương nhạt.

Thấp thoáng trong bóng tối chập choạng, có tiếng nói trẻ cười đùa dưới ngôi nhà ba gian. Ngó sang. Bên cồn, có quán nước rộn rã tiếng mấy ông già đang ngân lên mấy câu vọng cổ. Quen thuộc. Thấp thoáng có gã mặc đồ chỉnh tề, ngồi bên ly cafe, thời gian gần như chẳng tác động được gì đến hình dáng, đang nâng một ly cafe đen đắng, có cô quán nước ngồi bên cười nói như thể trăng về hẹn thề với sông xưa. Định bụng, xong xuôi con cháu, chạy ù qua kia.

Sông xưa là dòng chảy quá khứ. 

Một chàng trai chẳng muốn dính chặt mình ở một nơi; gã đã có một sự quyết tâm để thay đổi cuộc đời mình, gã trao dồi tiếng Anh, sau khi tốt nghiệp loại giỏi từ một trường đại học công lập hàng đầu. Thủng thỉnh. Một lời hẹn. Gã sẽ trở lại cồn một sớm mai thỏa chí tang bồng. Hẹn một lời. Với người con gái lớn lên ở bên cồn cùng gã, dịu dàng và lẳng lặng như nước của con sông quấn lấy quanh cồn chẳng bao giờ hung bạo tạo ra mấy cơn sóng lớn. Một lời hẹn gắn với thời gian vô định. Chẳng rõ. Cô gái cứ trả lời khi có người hỏi han. 

Đến độ, trăng về sáng như thể tỏa ra lần cuối, nhìn rõ bóng hai con người soi xuống một bến sông. Cô gái bước xuống chiếc xuồng ba lá, bơi một mạch qua phía bên kia cồn. Từ đó, người ta không còn thấy cô gái bơi xuồng ba lá bước lên chiếc cồn nhỏ, như thể lập một lời thề. Tưng bừng. Pháo nổ. Đám cưới vang vọng sang cả một bên cồn. 

***

Ba mươi năm trôi vèo như trong một giấc mộng. Cuộc tình trên đất Mỹ lại trở thành chia ly, thật ra là giữa gã và vợ gã chẳng có phát sinh gì xảy ra, chẳng hiểu vì sao sự tôn trọng và tự do ở một xứ sở ấy lại dội vào lòng gã một điều gì đó ngang ngang, như một chất hóa học bị trơ theo tháng năm. Ba đứa con gã lớn, gã và vợ gã bắt đầu có những bất đồng. Lạ. Đất nước cờ hoa, người ta bỏ nhau dễ như là ăn một buổi cơm, có người hòa vào góp vui thúc đẩy. Ngán.

Gã muốn trở lại Việt Nam, thấp thoáng trong ảnh hình của mình là cô em gái nhỏ bên cồn khi xưa. 

Gã sau hơn ba mươi năm xa xứ, thuộc thế hệ lớn lên sau chiến tranh. Gã chinh chiến qua nhiều nước Đông Nam Á, trước khi dừng lại ở một đất nước cờ Hoa, cưới vợ và có con, gầy dựng gia đình và sự nghiệp. 

Nhưng gã biết, gã đã thay đổi. Gã mang theo ký ức về quê hương, không còn như một gánh nặng, mà như một món quà. Một phần của gã sẽ luôn ở lại đây, bên dòng sông, bên bến cũ. Gã muốn làm gì đó ở nơi này, nơi cồn nhỏ đã chứng kiến gã sinh ra, lớn lên tắm mát ở dòng sông bao quanh cồn nhỏ, bởi những cây trái trĩu quả chẳng thiết tha ăn. 

Người con gái bên cồn, thuộc thế hệ lớn lên sau chiến tranh, ướt đẫm những lời hát của mấy câu vọng cổ, cứ ngân nga một cách tự nhiên, nhất là ở mấy độ khói lam chiều, có người từ Sài Gòn về nhậu ở một bến sông. “Thương thì nói là thương” 

Ba mươi năm trôi qua, người con gái bên cồn giờ trở thành phụ nữ, nhiều khi nghe trong xóm có Việt kiều về, lòng người con gái năm xưa trỗi dậy, cứ tự hỏi có phải khi đó nếu mình đồng ý thì giờ đây sẽ thế nào. Rồi cười. Vấn lại tóc, chuẩn bị một mâm cơm, quét dọn một căn nhà, chờ ông chồng đón mấy đứa cháu. Người con gái bên cồn giờ một nách ba con, chẳng hiểu sắt son để làm gì, chỉ thấy thời gian trôi đi, soi vào trong tấm gương thấy gì đó đã nhạt nhòa son phấn đến phôi pha.

“Xin trả tôi về thời xa xưa lộng gió

Bên khóm hoa cà rượt đuổi bướm tung tăng

Diều căng dây mái đình thương đầu xanh chưa biết buồn

Chưa sầu chưa hờn oán”

Cá lội dưới sông, quẩy đuôi:  Ra là quân tử lỡ thời bất câu liêm sỉ à? 

Ba lá: Ai biết mợ gì đâu. Cứ từ ngày quân tử ra đi thì tao cũng được cột chặt ở bến cầu này, chẳng còn qua lại cồn nhỏ, cho đến khi cầu bắt sang lại càng cột chặt. 

… 

Người con gái bên cồn, cũng tất tả của một buổi chiều với bùa nêu, quét dọn một mảnh sân trước nhà, căn nhà ba gian vẫn còn đó, chỉ có thêm những tấm hình ở trên chiếc tủ thờ được cẩn bóng lưỡng theo thời gian, có mấy đứa trẻ được em điều động để quét một sân nhà, cắt tỉa lại mấy giàn hoa dâm bụt trước nhà, bàn thiên cũng bắt đầu được lao dọn lại, hoa mai trước nhà vài nhánh đã trổ bông.

Xin trả tôi về thời xa xưa lộng gió

Bên khóm hoa cà rượt đuổi bướm tung tăng

Diều căng dây mái đình thương đầu xanh chưa biết buồn

Chưa sầu chưa hờn oán

Anh về đây chơi lâu không? Cô quán nước thì thầm hỏi, dõi mắt cùng gã nhìn qua bên sông. 

Gã gật đầu, không nói gì. Cô không biết rằng, qua đêm, gã đã lặng lẽ đặt một bó hoa nhỏ trước quán nhà cô, như một lời tạm biệt với những gì còn dang dở trong lòng.

Sớm ấy, gã rời đi. Trước khi bước lên chuyến xe cuối ngày, gã ngoảnh lại nhìn lần cuối. Dòng sông vẫn chảy, bến nước vẫn đó, như chưa từng thay đổi. Nghe gió xuân sang.

(Ảnh Internet)

https://doisales.com.vn/index.php/2025/01/11/story-nghe-gio-xuan-sang-the-whisper-of-spring-winds/

***

“Please return me to those dreamy old days,

By the thatched roof in the afternoon, watching the clouds drift by.”

Fish swimming beneath the river’s surface whispered to one another, “Hey, Three Leaves, did you see? A strange man has arrived on our island under the cover of night!”

That night, by the riverbank, the countryside sky was crystal clear, glittering with stars. He sat cross-legged, gazing out at the black expanse of the river, its slow-moving waters seemingly carrying away old memories. Coffee and cigarette smoke swirled in the air. The breeze from the river brought a sweet, wholesome scent.

He couldn’t sleep. A whirl of emotions engulfed him, caught between nostalgia and the present. Back in the day, he thought he could grasp the whole world in his hands, but in the end, what he chased after were empty dreams. The bustling city, once a source of ambition, was now a place where he realized he had lost more than he’d gained.

Right after arriving at the airport, he headed straight to the bus terminal, catching a ride to the familiar places of his past. By the time he arrived, evening had fallen. A motorbike taxi took him to revisit old haunts. The suspension bridge from back then had been replaced with a sturdy concrete one. The river that had mirrored his youthful reflection was now a busy trade route. In the wind, he caught the scent of green leaves lining the roadsides—a sweetness born from the silt and waters that had nurtured the land for years.

He wandered. As night deepened, he paused after aimlessly roaming, stopping at a small café nestled beside the bridge, overlooking the other side of the river.

By eight o’clock, the island seemed to have gone to bed.

Three Leaves swayed: “That guy’s familiar! He left, but he’s come back!”

“Sáu Tám Café”—the name, a blend of mother and daughter, written in lettering and hues reminiscent of the 1980s. Time, like a bullet, had flown by.

Fish splashed below, rippling the water, whispering: “The mother is no longer here, and the girl—an orphan—has taken up the task of running this café.”

The café owner greeted him with a bright, beaming smile, her eyes as clear as the river under the moonlight, her cheeks glowing with a youthful charm, as if the waters had imbued her with the vitality of early spring.

He took a seat in a corner, ordering a black coffee. The café had only a few tables and chairs, serving simple evening brews and tea from a small aluminum kettle with a few cups. The taste was unchanged. Nearby, a lively group of locals was drinking, their voices a mix of laughter and raspy tones. One of them began singing an old folk song, the melody sweet and nostalgic as if echoing the water’s coolness from years gone by.

A voice called out from behind:

“Are you… the man who’s just returned from the city?”

He turned around. The café owner’s radiant smile revealed her pearly white teeth, as dazzling as the dawn breaking over ripened rice stalks in the early morning. He nodded, smiling. “Yes, I’ve come back to visit my hometown.”

He sipped the coffee, its burnt bitterness tinged with the flavor of roasted corn. Yet, he relished the lingering taste of each drop that fell silently in the tranquil night. The buzzing of mosquitoes merged with the rustling wind. It was a comforting contrast to the artificial chill of air conditioning and the million-dollar Italian coffee machines he and his son worked with back in the city every morning. Somewhere in the breeze, there was the faint scent of sun-dried firewood being burned. He remembered the smell of fields being cleared by fire in his younger days.

From a cassette player, music flowed:

“A mother stokes the stove, the smoke carrying the fragrant scent of hay.

Warmth and love linger in the air, tied to the simplicity of the countryside.

Please return me to that small, humble homeland,

With golden bamboo groves and rice paddies lining the riverbanks.”

Fish swam beneath the river, flicking their tails: “Since I was born, I’ve never seen this guy before. Is he some drifter from far away, or maybe not quite one of us nor one of those city folk?”

As he sipped his drink, the café owner asked about his family. His relatives, rooted in the island’s life, adapted to the rhythms of nature—living off fish and shrimp when the waters rose, and fruit harvests when the tide receded. They were thriving. The ancestral home was still there, preserved by remittances sent back from family members far away. The upkeep fell to an old man who meticulously tended the altar and maintained the family records.

“Welcome home!” the old man greeted him immediately upon his arrival at the family house. He arranged a simple sleeping space for him. By then, the sun had set, giving way to the moonlight.

The next day, he breathed in the scents around him—the incense from the ancestral altar, the damp earth by the levee, the faint odor of stray dogs, and the sweet aroma of blooming night flowers mingling with the fragrance of the coffee. He inhaled deeply, as if it were his first full breath in ages. The pandemic had just passed.

Three Leaves swayed again: “Why rush? Just sit and listen to their conversation!”

Starting a conversation was easy. The café owner pulled up a chair and sat beside him, sharing her story. She poured out her life as if talking to someone who could truly understand. She told him about the café she had opened, not just to make a living but to preserve a piece of her homeland, especially after her disillusioning experiences in the city. She had once crossed the river and lost her footing, metaphorically and literally. Her husband had left for overseas labor, seeking a better life, but disappeared into the void. One day, he returned briefly, saying their paths had diverged. She accepted it, saying, “If there’s no debt, there’s no need to linger.”

She came back to this place, the café her mother had cherished, rooted in the land they both loved. Her mother’s life was a mirror of her own—left behind by a man who sought change elsewhere. Her mother had sent him away under the bright moonlight, bidding him leave with harsh words and never return. Since then, the island’s young men had come and gone, serenading her mother with folk songs.

She continued: life on the island was both comforting and limiting, a place where memories lingered, yet the yearning for something more was ever-present.

He shared his own stories—his struggles in the city, his longing for something different, only to realize that home was where he truly belonged.

Narrating. He talked about his days in the city, his mood mirroring hers. He wanted something different in life, to go far away, seeking a promised land—a place called the land of stars and stripes. Snowbound. Cold. Testing whether it was colder than a human heart.

"I’ve traveled to many places, but in the end, I came back here," she smiled, her voice as gentle as the river breeze. "Perhaps home is always the place people return to when they are weary."

"The world deceives with lies and treachery.

Who in life would still care for me?"

Fish in the river: Why is he staring at this side so intently?

The wooden boat sways: its body on the islet, its soul here on the shore.

It was her—the woman from years ago—now a full-figured, composed mother. In her eyes remained traces of the girl from the islet, even as time had dusted her hair with the pale hue of frost.

In the dim twilight, echoes of children’s laughter rose from the three-room house. Looking across, an old tea shop on the islet buzzed with the voices of elderly men singing vọng cổ tunes. Familiar. There was a man in formal wear, nearly untouched by time, sipping a bitter black coffee, while the tea shop hostess laughed beside him as if the moon had returned to its promise with the river of old. He thought to himself, once everything was settled with the children and grandchildren, he’d dash over there.

The old river flows with the currents of the past.

A young man unwilling to anchor himself in one place had resolved to change his life. He improved his English, graduated with honors from a top public university. Leisurely, he made a promise: he would return to the islet one morning, fulfilled and free. A promise, vague in time, made to the girl who had grown up with him on the islet—gentle and quiet like the river’s water that encircled the islet, never raging into great waves. When asked, the girl simply replied without certainty.

Until one morning, the moon seemed to cast its light for the last time, revealing two figures reflected at the riverbank. The girl stepped into her wooden boat, rowing straight to the other side of the islet. From that moment, she was never seen returning to the small islet, as if sealing a vow. Jubilant fireworks burst as wedding festivities echoed across the river.

Thirty years passed in the blink of an eye. The romance in America turned into separation. There had been no real conflict between him and his wife. Somehow, the respect and freedom in that land had filled him with a strange kind of detachment, like a chemical reaction that had dulled over time. His three children grew up, and disagreements began to emerge between him and his wife. Strange. In the land of stars and stripes, people divorced as casually as having a meal, with others chiming in to push things along. Exhausting.

He wanted to return to Vietnam, his memories haunted by the little sister from the islet.

After more than thirty years abroad, he belonged to the generation that grew up after the war. He had journeyed across many Southeast Asian countries before settling in the land of stars and stripes, marrying, having children, and building a family and career.

But he knew he had changed. He carried memories of his homeland—not as a burden, but as a gift. Part of him would always remain here, by the river, at the old jetty. He wanted to do something for this place—the small islet that had witnessed his birth, his growth, and his swims in the river that surrounded it, among fruit trees so abundant they lost their allure.

The girl from the islet, also of the generation that grew up after the war, was steeped in the melodies of vọng cổ, naturally humming along, especially in the smoke-filled air of late afternoons when someone from Saigon came by to drink by the riverside. "If you love, just say so."

Thirty years passed. The girl from the islet had become a woman. Sometimes, hearing about overseas Vietnamese returning to visit, she felt a stirring in her heart, wondering if things would have been different had she said yes back then. Then she laughed, tied up her hair, prepared a meal, and tidied the house, waiting for her husband to pick up the grandchildren.

The girl from the islet, now a mother of three, no longer understood the purpose of steadfastness. She only noticed time passing, reflected in the mirror where her makeup had faded, leaving only remnants of what once was.

"Take me back to the windswept days of old,

By the purple blooms chasing butterflies.

Kites flew high by the village roof.

Oh, young days, untouched by sorrow or blame."

Fish swam in the river, tails flipping: So you’re a disgraced gentleman clinging to pride?

The wooden boat: Who knows? Ever since the gentleman left, I’ve been moored here, no longer crossing to the islet. When the bridge was built, I became even more anchored.

The girl from the islet busied herself one evening, sweeping her front yard and the three-room house still standing there. On the polished altar cabinet were photographs of loved ones. She instructed the children to sweep the yard and prune the hibiscus flowers in front of the house. The household shrine was cleaned, and the apricot tree in front had begun to bloom.

"Take me back to the windswept days of old,

By the purple blooms chasing butterflies.

Kites flew high by the village roof.

Oh, young days, untouched by sorrow or blame."

"Will you stay long this time?" the tea shop hostess softly asked, her eyes following him across the river.

He nodded but said nothing. She didn’t know that by dawn, he had quietly left a small bouquet in front of her shop, like a silent farewell to the unresolved feelings in his heart.

That morning, he left. Before boarding the last bus of the day, he turned back for one last look. The river still flowed, the jetty still stood, unchanged. He heard the spring breeze arriving.












Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

Bỏ lại Sài Gòn (2): “sic vos non vobis” - Leaving Saigon behai (2)



465f722bebc2c1ade374a034cadf9541 
Bỏ Sài Gòn đi anh.
“sic vos non vobis”

Anh quay lưng lại. Người nữ sinh trung học áo tím dọc ngang một thời trên đường Legrand de la Liraye, đã từng khiến anh chàng áo trắng của Petrus Ký ngày ngày đạp xe đến rồi ngồi miệt mài chỉ để ngắm nhìn tà áo bay rồi mất hút trong vài phút cứ như là ảo ảnh. Anh rượt theo ảo ảnh. Nụ cười để trên vành môi, cho ai thì chỉ có người cười biết. Vờn gió. Bàn tay trắng nõn nào vịn lại tà áo để bớt nghịch ngợm khi gió lùa, vẩn vơ bỏ lửng nụ cười ở phía đằng sau. Ở một chiều, tà áo tím bay rồi dừng lại để vấn vương không còn là ảo ảnh. Chiều đấy, nắng soi, bóng trãi xuống con đường của một đôi hòa quyện lúc lá reo xột xoạt trên đầu.

Sài Gòn độ ấy ngợp những tờ giấy bay. Kêu gọi kháng chiến. Kêu gọi hòa bình. Những dòng người đi tìm lý tưởng sống cho riêng mình.

Áo tím – đê mê giấc mơ về một lời thề Hyppocrate ghi trên đề từ như thể hiện một quyết tâm & sự ngưỡng mộ đề dành cho một giáo sư với hai chữ Biểu Tâm được viết hoa rõ ràng và nắn nót. Tú tài đệ tú vừa là nổi lo lắng vừa là niềm phấn khích. Áo tím kể về giấc mơ ấy cho áo trắng nghe dưới tàng cây đã thay một mùa lá ở một góc con đường. Buổi đấy, áo trắng như viết nhanh hơn sau khi nghe áo tím nói. Áo trắng viết những điều đang suy nghĩ về “nhân bản”, “dân tộc” & “khai phóng” rồi đến phân tích “địa vị nước Việt Nam ở Đại Đông Á và trong toàn cầu” trên quyển vở chằng chịt những câu đại loại như là khẩu hiệu sau khi .  

Sài Gòn độ ấy ngợp những tờ giấy bay. Kêu gọi kháng chiến. Kêu gọi hòa bình. Những dòng người đi tìm lý tưởng sống cho riêng mình. Xuống đường. Có chiếc áo trắng đi trong nhóm đầu.

Áo trắng – mê mãi về trong những khái niệm Luận Lý học, Đạo Đức học, Triết học Phương Đông…- thích đọc cho cô gái Gia Long những khái niệm siêu hình & phản đề của riêng mình ở mấy chiều nắng tắt. Những bản tin nối tiếp nhau về lửa đỏ chiến tranh.
Một bận, áo trắng nói: anh sẽ vác súng trường. Sự thật và dối trá. Tuyên truyền và kêu gọi. Dân chủ & tự do. Áo trắng buổi đó lặng im, ngồi ghép phụ dòng chữ dán trên nền vãi đỏ cho thỏa chí tang bồng.

311e714f3ad5bfd9941ecd6fdaa9cc35
Sài Gòn độ ấy ngợp những tờ giấy bay. Kêu gọi kháng chiến. Kêu gọi hòa bình. Những dòng người đi tìm lý tưởng sống cho riêng mình. Xuống đường. Có chiếc áo trắng đi trong nhóm đầu. Có chiếc áo tím giữ chặt chiếc máy để ghi lại khoảnh khắc sẽ trở thành một phần của lịch sữ (của cả hai)

Bức ảnh ám ảnh nhất là bức ảnh thấm nhiều máu nhất. Áo tím ngồi lau. Áo trắng ngồi nói. Luyên thuyên về những câu đại khái: em thấy gì không? Chúng ta đã sống ở một thời đại như thế. Áo trắng nhuộm màu. Đỏ của máu. Sài Gòn khi đó tiếng súng vang vọng trong đêm cùng tiếng ve kêu. Gối đầu vào vòng tay ấy, lắng nghe tiếp những phản đề của Luân Lý & Đạo Đức, đêm ấy áo tím cho đi những gì quý nhất của đời mình. Lảng bảng. Cuộc chuyện trò bỏ lửng:
Bỏ Sài Gòn anh nhé!? 
Đi đâu em!?
Đâu cũng được, miễn là đi khỏi chốn này.
Petrus ký từng nói: “sic vos non vobis”, còn chúng ta sẽ sống vì điều gì!?


1d504ab725b2c2513070c651e5315e95
Anh ngước mặc nhìn. Người phụ nữ đã biến mất khỏi cuộc sống anh sau đêm nằm gối đầu vào cánh tay mình. Thời gian ba mươi tám năm trôi nhanh như cái chợp mắt của đêm Sài Gòn tiếng súng hòa cùng tiếng ve. Trước mắt anh, người phụ nữ trong chiếc áo dài màu xanh, mắt mộng nước, đứng dưới chân Đức Mẹ đang đưa cánh tay đỡ, nắng tỏa phía sau. Nghẹn ngào. Sự thật và dối trá. Tuyên truyền và kêu gọi. Dân chủ & tự do. Sau từng đó năm áo trắng giờ đã phai màu sau một thời chinh chiến.

Anh không còn tin giữ bên mình những quyển sách Luân Lý & Đạo Đức, giá trị sống chìm vào dòng nước ở một ngày con thuyền lênh đênh, thức dậy ở một nơi đợi chờ đón đến bến bờ xa lạ. Đất nước ấy chưa bao giờ anh nghĩ lại trở thành nơi anh dành gần nửa phần đời của mình với nỗi niềm của ngày hôm qua. Trong mọi giấc mơ đêm về, hình bóng quê nhà & đất mẹ vẫn cứ vẫy gọi giữa biển cả mênh mông và xác người nổi lềnh bềnh quanh anh.

Niềm tin & Lý tưởng. Theo dõi tin tức ở quê nhà, nhưng các buổi kêu gọi đấu tranh không còn thấy mặt anh. Anh không thích “hội” với “hè”, anh vùi đầu vào quá khứ, vào lịch sử với những gì sau ba mươi bảy năm nhìn lại là hai phòng sách Triết học chất đầy, bụi phũ mờ. Những đứa con giờ đã lớn, cũng đứa giống anh – đam mê Triết, hỏi về một câu nói: “sic vos non vobis”.

Lịch sử & quá khứ. Anh đặt vé về lại đất Mẹ.

Anh không nghĩ rằng gặp lại em nơi đây 
Em cũng vậy. Người phụ nữ nở nụ cười làm nắng trôi ngang, bỏ lại phía sau có những con người lôi kéo nhau. Một vòng tay ôm. Ướt đẫm vai.

Anh không nghĩ rằng được gặp lại em. Bỏ Sài Gòn đi em.
Sài Gòn độ ấy KHÔNG còn những tờ giấy bay. Kêu gọi kháng chiến. Kêu gọi hòa bình. Những con người CHẲNG CÒN đi tìm lý tưởng sống cho riêng mình nữa.
(Ảnh: Sưu Tầm )

Bỏ lại Sài Gòn (1)
***

Leaving Saigon

"sic vos non vobis"

“Leave Saigon, will you?”

He turned his back.

The girl in the violet áo dài, once a high schooler gliding through the old Legrand de la Liraye street, had once mesmerized the boy in a white Petrus Ký uniform. Day after day, he cycled there just to catch the fleeting glimpse of her flowing dress, vanishing like a mirage.

He chased that mirage.

The smile she left on her lips — who it was for, only she knew.

Teasing the wind.

Whose delicate hand held down the restless hem in the breeze, leaving her smile trailing behind like an unfinished thought?

Then one afternoon, that violet silhouette no longer drifted like an illusion. It stayed.

Sunlight poured over a path, two shadows intertwined under rustling leaves.

Back then, Saigon was drowning in flying leaflets.

Calls for resistance.

Calls for peace.

Waves of people chasing an ideal worth living for.

She — the violet áo dài — dreamed of a Hippocratic vow, carefully written in cursive on the first page of her notebook, as a tribute to a professor she admired, his name: Biểu Tâm — bold and proud.

Her Tú tài đệ tú exam was a mix of worry and thrill.

She shared those dreams beneath a canopy where seasons had passed, with the boy in white.

After hearing her dreams, he wrote faster.

He wrote thoughts of humanism, national identity, liberation, and went on to analyze Vietnam's place in the Greater East Asia Co-Prosperity Sphere.

His notebook filled with slogans disguised as essays.

Back then, Saigon was drowning in flying leaflets.

Calls for resistance.

Calls for peace.

Waves of people chasing an ideal worth living for.

They marched.

He, in his white shirt, was among the first.

He — absorbed in Logic, Ethics, Eastern Philosophy — read metaphysical concepts and personal antitheses to the Gia Long girl during golden dusks.

News kept coming. War was burning red.

One day, he said, “I’ll take up a rifle.”

Truth and lies.

Propaganda and hope.

Democracy and freedom.

That day, he fell silent — crafting banners with red cloth, chasing his own ideals.

Back then, Saigon was drowning in flying leaflets.

Calls for resistance.

Calls for peace.

They marched.

He was there — the white shirt.

And she — the violet áo dài — clutching a camera, capturing a moment that would become their shared history.

The most haunting photo was soaked in blood.

She wiped.

He spoke.

Rambling:

“Do you see? We lived in such a time.”

His white turned crimson.

Gunfire echoed with the cries of cicadas.

She rested her head on his arm that night, listening again to his theories on Ethics and Morality.

That night, she gave him all she had.

A drifting conversation left incomplete:

“Let’s leave Saigon, shall we?”

“Where to?”

“Anywhere. As long as it’s not here.”

“Petrus Ký once said sic vos non vobis... But what do we live for?”

He looked up.

The woman had vanished — the same woman who had disappeared from his life after that one night.

Thirty-eight years passed like a blink in Saigon’s sleepless night, gunfire blending with cicadas.

Before him now stood a woman in a sea-blue áo dài, eyes glistening, beneath the outstretched hand of the Virgin Mary statue — sunlight behind her.

Choked up.

Truth and lies.

Propaganda and hope.

Democracy and freedom.

His white shirt had faded after the war.

He no longer clung to Ethics or Morality books.

His values were washed away on a day the boat drifted across alien waters, only to awaken on an unfamiliar shore.

A land he never imagined would become home for half his life — filled with memories of yesterday.

Each dream still carried the scent of home — motherland calling across the ocean, among drifting corpses.

Faith and Ideals.

He still followed the news from home.

But no longer joined the rallies.

He disliked "associations" and “crowds.”

He buried himself in the past — in books and history — with two rooms full of dusty philosophy texts.

His children had grown. One of them, just like him, obsessed with ideas, once asked:

“Dad, what does sic vos non vobis mean?”

History & the past.

He booked a flight — back to Motherland.

He never expected to see her again.

Neither did she.

She smiled — sunlight crossed between them, while behind, people tugged each other in indifference.

They embraced.

Her shoulder wet.

“I never thought I’d see you again.”

“Let’s leave Saigon, will you?”

Saigon no longer has flying leaflets.

No more calls for resistance.

No more calls for peace.

And no one left searching for a life worth believing in.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

[Story] Đường về Quê Hương! [Back to Homeland]

Có những sự vô tình tạo thành duyên nợ, cũng có những duyên nợ tạo thành sự vô tình
Hắn tắt máy xe, tắt nhạc, chăm thuốc. Hai bên con đường tuyết phũ trắng xóa, những chiếc xe cứ vụt qua rồi mất hút.
Photobucket
Hắn ghét cay, ghét đắng những ai hỏi hắn về cuộc sống của mình. Dường như đã quá sức chịu đựng của hắn. Nhiều lúc hắn hỏi, cuộc sống này có phải là cuộc sống của chính hắn hay hắn đang phải sống thay cho một ai đó khác không phải là hắn.
Từ ấu thơ. Hắn phiêu dạt đến một chân trời mới. Tất cả đều bắt đầu lại từ đầu với hai người bố mẹ nuôi, hai con người hằn in trong trái tim hắn một tình yêu vô bờ bến, và cũng từ ấu thơ ấy trong trí nhớ hắn có những vết cháy loang cả giấc mơ và lửa ngập trời bập bùng trong những tiếng gọi nữa đêm. Cháy khét. Ấu thơ hắn dấu mình cùng rơm rạ với những thứ lướt qua đời hắn là những mãnh thịt rơi vụn vãi trong những đêm hè, ve không dám cất tiếng gọi hè bởi tiếng đạn bom lấn át. Tất cả bám theo hắn lớn lên. Không dứt.
Photobucket
Đến thiếu thời, hắn sống trên đất Mỹ với những công việc nối tiếp nhau xoay vòng, hắn quên mình là ai theo ngày tháng. Vô định. Có lúc hắn nằm dài trong những nghĩ suy về đời mình với một quá khứ ám ảnh đến cả giấc mơ trong một phút nào đó mắt nhắm nghĩ ngơi. Khi cuộc sống chỉ còn mình hắn. Những người thân yêu lần lượt qua đời.
Sống trên đất Mỹ, có những người Việt gặp nó mừng vui trong tiếng nói cười. Lúc đầu. Trở thành hàng xóm trong một tiểu bang. Ai gặp cũng nồng nàn, chan chứa lúc đầu để rồi những lời quan tâm chân thành đến bóng gió mĩa mai trở thành các mãnh gai vô hình xâu xé thân thể hắn khi hắn nói: muốn về Việt Nam. Về sau.
Lớn khôn. Lập gia đình. Hắn quyết lấy một cô gái cùng dân tộc và tiếng nói, để đỡ nhớ về một mãnh đất đã rời xa. Trong tâm trí ngoài khói lửa, có một bóng dáng của người phụ nữ che bom cho hắn trong một trận càn và những sợi tóc đứt bay bởi dòng đạn lướt qua, đôi mắt long lanh và một nụ cười thổi bay tất cả sự sợ hãi, ru hắn vào một cõi bình yên. Ám ảnh hắn đến giờ.
Trong ngày cưới. Hắn đứng dõi mắt hướng về phía người con gái cùng dân tộc và tiếng nói trong tay của cha mình từng bước tiến đến, trên gương mặt tự nhiên không thẹn thùng với một nụ cười thật tươi mắt đang hướng về hắn với những gì chân thành nhất. Cùng đứng trước đức cha, ban lòng lành cho lứa đôi hạnh phúc về sau.
Photobucket
Trong giây phút ấy. Tư dưng đầu hắn thoáng hiện lên một hình ảnh thẹn thùng ửng má trước bàn thờ ông bà, ở ngày xưa háo hức cùng đám nhỏ trong làng trèo cây xem cô dâu, chú rể. Không có. Làn khói nhang nghi ngút với bà con hai họ đứng hai bên, hắn sẽ quỳ và lạy tổ tiên để đón nàng dâu hiền về nhà mình trước một bàn thờ nhà gái. Cũng không có. Dòng lệ ngắn, dài trong hàng ngày đưa dâu, khi sau mãnh rèm bước ra, chợt nghe đâu đó có lời hát dặn dò:  Mẹ thường bảo con thân gái đục trong, mai kia mốt nọ còn đi lấy chồng…
Hắn đã có gia đình. Cuộc sống với những công việc xoay vòng quay trở lại. Gấp đôi. Những ca làm việc ngoài giờ với suy nghĩ về trách nhiệm gia đình, một mái ấm với vợ và đứa con trai đề huề, hắn nghĩ mình cần phải làm thế.
Nghe nhiều người nói cuộc sống chính thế này, cuộc sống chính là thế kia…toàn là cuộc sống chính. Chẳng nghe ai nói về cuộc sống phụ. Hắn có cuộc sống phụ là một mái nhà có cái nhìn hững hờ mỗi độ hắn về, người hắn gọi là vợ đang ngồi giũa móng tay, với vài lời nói honey hay sweetheart gì đấy khi hướng nhìn vẫn là màn hình tivi đang phát một chương trình nào đó. Không có. Một mâm cơm. Chỉ cần kho quẹt, rau xanh và một nồi cơm tro bám đen, thơm lừng phần cháy dưới đáy nồi mà hắn thòm thèm từ một thuở nhỏ. Quên mất rồi. Chỉ có những miếng bánh pizza nóng giòn, và những món ăn tại quán cách hàng chục cây số trong một cộng đồng những người con xa đất mẹ. Việt Nam. Cuộc sống nặng một mùi nhớ nhung quá khứ.
Photobucket
Một lần. Hắn ngồi trò chuyện cùng vợ, khi ánh mắt vẫn còn dán chặt vào tivi.
Hỏi. Em sẽ làm gì nếu có một trái bom thả xuống nhà ta, khi đó chỉ có em và con?
Trả lời. Anh nói gì vậy, chúng ta sống trên đất Mỹ đấy. Mà nếu có,em sẽ dắt con chạy. Mắt vợ nhướng lên nhìn hắn khó hiểu rồi quay trở lại màn hình tivi.
Hỏi. Em sẽ làm gì khi biết rằng sẽ không chạy kịp để tránh trái bom đó, khi đó chỉ có em và con?
Trả lời. Em không biết. Vẫn là chạy thôi, Em nghĩ em và nó sẽ chạy nhanh nhất đến mức có thể. That’s all.
Nhanh, gọn. Kết thúc một cuộc tình. Nhanh, gọn. Hắn mất đứa con vì một cái tát tay khi phát hiện vợ hắn ngoại tình.
Những lần đi làm hay tan ca, đồng hành cùng hắn là những bản nhạc quê hương ủy mị, bọn trẻ không thích nghe những bản nhạc đó, con trai hắn cũng không ngoại lệ. Những bản nhạc mà một người bạn về Việt Nam mua tặng hắn, đó là một món quà vô giá. Hắn mở đi, mở lại đến mòn đĩa với bài hát Đường Về Quê Hương của Lam Phương, trong xe hắn cứ não nề câu hát: Biết bao giờ về lại Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm con đò chiều hoang…
Có lần hắn hỏi: con biết Việt Nam không? Thằng nhóc lắc đầu hỏi ngược lại: đó là hòn đảo nào vậy? Một thoáng lặng im, hắn ôm con mình vào lòng, thì thầm: Đó là quê hương. Con hắn cố gắng nói trong vòng tay xiết chặt: Quê hương của bố hả?. Hắn buông đứa con ra, nhìn thẳng vào đôi mắt ngơ ngác của con trai mình, một thằng nhóc tóc đen da vàng hẳn hoi, một thằng nhóc có thể nghe tiếng Việt và gọi hắn là cha đến suốt đời nhưng hắn chỉ được bên cạnh con mình trong những giờ nhất định, được tính đếm hẳn hoi.
Photobucket
Hắn thấy mình đói khát. Một tình yêu. Không có trên đất khách này khi tình yêu không có sự vị tha và chung thủy, những thứ trở nên lỗi thời và đắt đỏ hơn bao giờ hết. Hắn bật đĩa nhạc, nghe tiếp câu hát: cô em mắt ướt mang sầu chia ly ra mừng đón ta về…Hắn vuốt nhẹ hai tấm vé máy bay ghi điểm đến: Việt Nam. Thấy vài chồi xanh đang vươn mình trong tuyết trắng, báo hiệu đông tàn, xuân chuẩn bị sang.
***

There Are Coincidences That Become Fate, and Fates That Seem Coincidental

He turned off the engine. Killed the music. Lit a cigarette.

Both sides of the road were blanketed in white snow. Cars zipped by, vanishing into the winter haze.

He despised—truly loathed—those who asked about his life.

It felt like too much.

At times, he wondered if this life was even his. Or was he simply living out someone else's fate?

Since childhood.

He'd drifted toward a new horizon. Everything began again with two foster parents—two people who engraved into his heart an infinite, wordless love.

But since then, his memories had been haunted by seared images—of dreams scorched by fire and skies aflame, echoing with screams in the dead of night.

Burning.

As a boy, he'd hidden beneath straw and hay.

Life drifted past him in fragments of meat splattered on summer nights, too grim for even the cicadas to cry out for summer, drowned by gunfire and bomb blasts.

All of it clung to him as he grew.

Never let go.

Later, in his youth, he lived in America, job after job cycling endlessly.

He forgot who he was.

Drifting.

At times, he lay awake thinking of his past—its shadows so deep they invaded even his briefest moments of rest.

Life had shrunk to just himself.

Loved ones had passed, one by one.

In America, some Vietnamese greeted him warmly—with laughter and cheer. At first.

They became neighbors, familiar faces in a strange state.

But warmth turned to sarcasm.

Sincere concern curdled into cutting remarks,

especially when he spoke of one day returning to Vietnam.

He married a woman of the same roots, the same language—perhaps hoping it would ease the ache of that distant homeland.

But still, in his mind, was the silhouette of a woman who once shielded him from a bombing raid—her hair sliced by passing bullets, her eyes glimmering, her smile dissolving his fear like a lullaby.

That image never left him.

On their wedding day, he watched that woman—his wife now—walk slowly toward him, hand in hand with her father.

She wore no shyness, only a radiant, honest smile.

Together, they stood before a priest who blessed them, prayed for their happiness.

Still, he couldn’t help but think back.

A sudden image flickered—his childhood self, cheeks blushing, crouched before the family altar,

surrounded by other village kids climbing trees to catch a glimpse of the bride and groom.

There was no incense smoke curling between rows of relatives.

No kneeling before ancestors to welcome a daughter-in-law home.

No sobbing behind curtains, no songs reminding:

“Daughter, remember your worth in this world, one day you’ll marry far away…”

He had a family now.

Life spun again in loops—this time twice as fast.

Long hours, overtime, pressing thoughts of responsibility,

a wife and a son waiting at home.

People kept saying, “This is real life.”

Always “real life.”

Never a word about unreal life.

His “unreal life” was a home where no one really saw him return.

Where the woman he called wife filed her nails on the couch, muttering “honey” or “sweetheart” without lifting her eyes from the TV.

No meals.

Not even a simple pot of rice, scorched black at the bottom, that he had longed for since childhood.

Gone.

Only slices of greasy pizza and takeout dishes from restaurants miles away, shared among Vietnamese far from home.

A life steeped in the scent of longing.

One time, he tried to talk with her.

Her eyes still locked on the TV.

He asked:

“What would you do if a bomb were dropped on our house—if it was just you and our son at home?”

She replied:

“What are you even saying? We’re in America.”

“But if it did happen, I’d grab the kid and run.”

She raised an eyebrow at him, confused, then turned back to the screen.

He asked again:

“What if you knew there was no time to run, no way to escape?”

She answered:

“I don’t know. I’d still run. I’d run as fast as I could. That’s all.”

Quick. Cold.

Like their love.

Quick. Cold.

He lost his son after slapping his wife upon discovering her affair.

On commutes and late-night shifts, he kept playing old Vietnamese songs—melancholy tunes that the younger generation despised.

His son was no exception.

Those CDs, brought back from Vietnam by a friend, were priceless to him.

He played them to the point of wearing out the discs.

One song played endlessly in his car: “The Road Back to the Homeland” by Lam Phương.

"When will I return to Vietnam... to the golden rice fields, to the boat drifting on a lonely river..."

Once, he asked his son,

“Do you know Vietnam?”

The boy shook his head.

“Is that some island or something?”

Silence.

He pulled the child into his arms.

“That’s my homeland,” he whispered.

The boy tried to answer through the tight hug,

“Your homeland, Dad?”

He let the boy go and looked into his son’s wide, puzzled eyes.

This dark-haired, golden-skinned boy who could speak Vietnamese, who would forever call him Cha.

Yet he only got to see him in scheduled hours, on a court-approved timeline.

He felt starved.

For love.

The kind of love that had no place in this foreign land,

where loyalty and forgiveness were outdated luxuries.

He turned up the volume.

Listened to the line:

“Her tearful eyes welcome me home…”

He gently touched two plane tickets marked:

Destination: Vietnam.

Outside the windshield,

tiny green buds were pushing through the white snow.

Winter was ending.

Spring was near.

[Nhật ký của cha] Merci, ông già & con chữ

  Ai rồi cũng phải lớn! Ông già nhận ra điều đó khi ngồi ly trà cúc còn ủ hơi nóng ở một đêm cuối hạ, lắng nghe thằng nhóc Merci nói bằn...